Trần Mỹ Duyệt
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Theo những tài liệu mang tính cách truy tìm và tham khảo, Thánh Giuse là người Do Thái thuộc thế kỷ I. Người mà theo Phúc Âm tường thuật, thuộc hoàng tộc Vua Đavít, đã kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria, ái nữ của Thánh Gioakim thuộc chi tộc Judah, cũng thuộc dòng tộc Đavít, và Thánh Anna thuộc chi tộc Levi. Tiến Sỹ Joshua Schachterle, giáo sự Kinh Thánh, trong bài viết tựa đề “Mary and Joseph: Ages, Marriage, and Travel to Bethlehem” đã cho rằng, Đức Maria kết hôn với Thánh Giuse ở giữa tuổi 14 và 19, trong khi đó Thánh Giuse vào khoảng 20 tuổi. [1] Cũng theo Thánh Kinh, Thánh Giuse đồng thời là nghĩa phụ - cha đồng trinh - của Chúa Giêsu. Ngài được tôn kính trong Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, Giáo Hội Chính Thống Oriental (Hiệp thông với các giáo hội Kitô Giáo Đông Phương), Anglicanism (Kitô Giáo truyền thống phát xuất từ Cuộc Cải Cách tại Anh thế kỷ 16), và Lutheranism (Ngành Tin Lành chính, theo thần học của Martin Luther, thế kỷ 16).
Thánh Giuse sinh tại Bethlehem, năm 30 BC.
Qua đời năm 20 AD tại Nazareth. Hưởng dương 49 tuổi. [2]
Ngài là bổn mạng của các người cha, các công nhân thợ thuyền, đặc biệt các người thợ mộc, che chở những người mẹ hiếm muộn, và các trẻ em chưa sinh. Theo Thánh Têrêsa Avila, Thánh Giuse còn là đấng bầu cử cho những ai trong cơn hấp hối được ơn chết lành. Do lòng yêu mến mà Ngài đã được qua đời trong vòng tay của Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu. Ngài còn là một vị rất thần thánh trên Thiên Đàng, Thánh nữ đã xác tín rằng: “Không có điều gì tôi xin với Thánh Giuse mà không được ban cho”.
Để biết rõ hơn về Thánh Giuse, thân thế cũng như vai trò của Ngài, một cách đặc biệt trong nhà Nazareth, theo linh mục Michael Hall, chỉ có thể được tìm thấy qua Tân và Cựu Ước.
Trước hết, Thánh Marcô nhắc đến Chúa Giêsu như là “con bác phó mộc”, nhưng không nêu rõ tên của bác phó mộc là ai? Theo suy đoán, có lẽ vì Thánh Ký muốn nói đến Chúa Giêsu như một người đã trưởng thành. Tuy nhiên, có hai nơi đã nhắc rõ ràng Chúa Giêsu là con của Thánh Giuse. Đó là Phúc Âm Luca 3:23-38, và Phúc Âm Gioan 1:45.
Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thánh Giuse đã được biết đến ở hai trình thuật của Thánh Mátthêu và Luca. Riêng Phúc Âm Luca, những gì mà Thánh ký ghi lại được cho là chính Đức Maria đã kể lại. Còn Thánh Mátthêu có ý giới thiệu Thánh Giuse như là miêu duệ của Abraham và của Đavít dựa theo trong Cựu Ước. Ở phần kết thúc về gia phả của Chúa Giêsu, thánh ký đã viết: “và Giacóp cha của Giuse, chồng của bà Maria, người sinh ra Chúa Giêsu, Đấng được gọi là Cứu Thế” (Mátthêu 1:16).
Hình ảnh của Thánh Giuse cũng thấy xuất hiện trong biến cố Truyền Tin do Thánh Luca kể – Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria là bà sẽ làm mẹ Con Thiên Chúa. Dầu vậy tên của Thánh Giuse đã được nhắc đến ở Tin Mừng của Mátthêu: Khi mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, trước khi về cùng nhau, bà đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse định tâm ly dị bà, vì ông là người công chính. Và Thiên Chúa đã can thiệp trong một giấc mơ, cho ông biết về xuất xứ của bào thai. Nhờ biến cố này, qua việc Thánh Giuse đặt tên cho trẻ Giêsu mà vai trò làm cha của ngài đối với Chúa Giêsu đã được Thánh Kinh ghi nhận (x. Mt 1:18-21). Như vậy, Thánh Giuse đã làm trọn lời tiên tri khi đặt tên cho Đấng Messiah, và cho Ngài một tình trạng hợp luật: con của Giuse thuộc dòng tộc Đavít.
Trong gia đình Nazareth, theo Thánh Mátthêu, Thánh Giuse đã lo lắng, bảo vệ gia đình của mình – và nó cho chúng ta một gương mẫu trọn hảo về vai trò làm chồng cũng như làm cha – của những người đàn ông. Điển hình là khi được thiên thần báo mộng, ngài đã đem gia đình mình trốn qua Ai Cập, và, khi thời gian viên mãn, đem họ trở lại Nazareth, ở đó trẻ Giêsu đã lớn lên.
Thánh Luca mặc dù không nói gì về những giấc mơ của Thánh Giuse, nhưng ông cũng kể một cách rõ ràng về cuộc sống của Thánh Gia. Ở hai chương đầu của Phúc Âm, Luca đã đưa chúng ta đi qua những gì mà Kinh Mân Côi gọi là “Mầu Nhiệm Vui”, trong đó, Maria được giới thiệu “đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng họ Đavít”. Vâng nghe tiếng Thiên Chúa trong Phúc Âm của Mátthêu, ngài cũng vâng giữ lề luật – cả tôn giáo lẫn dân sự. Khi lệnh truyền kiểm tra dân số của hoàng đế đến, ngài đã đem vợ mình đang có thai về nơi sinh trưởng – thành Bethlehem – để ghi danh.
Tiếp đến, trong chương 2, cả Thánh Giuse và Đức Maria đã vâng giữ Torah – Luật Cựu Ước. Các ngài đi đền thờ Giêrusalem sau khi sinh Chúa Giêsu, để “thanh tẩy”, và để dâng lễ vật được chỉ định cho những con trai đầu lòng. Rồi hàng năm, theo luật, các ngài đã nhiều lần từ Nazareth lên Giêrusalem dự Lễ Vượt Qua. Một trong những Lễ Vượt Qua ấy đã ghi lại ấn tượng đối với các ngài, đó là năm trẻ Giêsu lên 12 tuổi sau lễ, đã tự ý tách mình khỏi cha mẹ để đàm đạo với các bậc thầy luật sỹ trong đền thờ. Nhưng cũng chính do biến cố này, một lần nữa, khi tìm thấy Ngài, Đức Maria đã xác nhận và làm rõ hơn vai trò làm cha của Thánh Giuse: “Cha con và mẹ đã đau khổ tìm con”. Tuy nhiên, Ngài đã trả lời bằng một câu nghe như đắng lòng đối với Thánh Giuse: “Ông bà không biết rằng tôi phải ở lại trong nhà Cha tôi sao?” (Luca 2:49). [3]
Đối với Thánh Augustine, Thánh Giuse và Đức Maria biết Chúa Giêsu là con của các ngài, nhưng các ngài phải nhận rằng Chúa Giêsu không phải là người con một cách độc quyền của các ngài. Con của các ngài cũng là Con Đời Đời của Thiên Chúa và vì vậy, cũng đã tạo dựng nên cha mẹ của mình. Chúa Giêsu là con của các ngài trong thời gian, và các ngài cũng là cha mẹ của Ngài trong thời gian.
Trong bài giảng 51, 30, Thánh Augustine tiếp tục giải thích: Thánh Giuse là cha của Chúa Giêsu không phải do những việc làm của thân xác, nhưng do những việc làm của tình yêu. Điều quan trọng nhất để trở thành một người cha là tình yêu. Đó cũng là lý do con cái nhận ra người cha thật của mình: không chỉ bằng tương quan thể lý, nhưng còn bằng tình yêu!
Thánh Giuse trở thành người cha của Chúa Giêsu ngoài sự kết hợp của hành động vợ chồng, nhưng ngài vẫn ở trong gia phả của Chúa Giêsu, bởi vì “sự cảo cả tinh tuyền của ngài, khẳng định chức làm cha của ngài”. Chức năng làm cha của Thánh Giuse không chỉ do thể xác, nhưng do sự trinh khiết của ngài. Ngài là “cha đồng trinh” của Chúa Giêsu. Khi Thánh Giuse lần đầu tiên nghe rằng Maria mang thai, ngài đã phản ứng như mọi người đàn ông khác phản ứng. Ngài đã bị chinh phục và tìm cách từ bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong giấc ngủ, khi nghe thiên thần cắt nghĩa rằng bào thai trong lòng Maria là do phép Chúa Thánh Thần, ngài đã với chủ ý trong sạch nhất đón nhận Maria làm vợ và Giêsu làm con của mình.
Thánh Giuse là người chồng và là người cha đồng trinh. Việc làm của Chúa Thánh Thần, theo Thánh Augustine, cũng đã bao trùm trên Giuse và Maria vì cả hai đều công chính. Chúa Thánh Thần ngự trên sự công chính của cả hai và ban cho họ người Con. Mặc dù Đức Maria sinh hạ, nhưng người con là thuộc cả hai. Trên thực tế, thiên thần đã truyền cho cả hai phải đặt tên cho con trẻ, và điều này đã ban quyền làm cha mẹ cho họ trên Giêsu. Vì thế, nếu quyền làm cha của Thánh Giuse trên Chúa Giêsu bị từ chối, điều đó sẽ ngăn cản Đức Maria thay thế chồng để nói: “Cha con và mẹ đã đau khổ tìm con” (Luca 2:48), khi tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ. [4]
Cha Michael Hall căn cứ vào trích đoạn Phúc Âm của Thánh Luca thêm: Dĩ nhiên, Giêsu trở về Nazareth với ông bà và vâng lời cha mẹ là Maria và Giuse, “Thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:5). Nhưng sự hiểu biết về nguồn gốc chính của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Gioan, ở đó từ “cha” được dùng trên 100 lần. Chỉ có 2 lần chỉ về Giuse.
Khi viết về “gia phả” của Chúa Giêsu, bắt đầu với Giuse và tiếp tục lui về “Seth, con Adam, con Thiên Chúa”, ở đó bao gồm Vua Đavít và Abraham, Thánh Sử Luca xem như muốn giới thiệu vị trí của Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn. Ngài chia sẻ, qua Thánh Giuse, rằng căn tính mà chúng ta tất cả đều có là con Thiên Chúa.
Đối với phần đông chúng ta, Giuse đã có một vị trí giữa các Tổ Phụ Cựu Ước - Abraham, Isaac và Jacob. Chúng ta có thể quen với câu truyện của ngài, nhưng có lẽ chúng ta không quen với sự thật là Giuse của Cựu Ước đã là một mẫu hình đặc biệt giữa những người Do Thái ở thế kỷ đầu. Trong Sách Huấn Ca viết vào ít thế kỷ trước khi Chúa Giáng Trần, đã đề cao ngài giữa những vị anh hùng cao cả: “Trong số những người đã sinh ra trên đời, chẳng có ai sánh được như ông Giuse: với anh em, ông là người lãnh đạo, với dân tộc, ông là người nâng đỡ. Hài cốt của ông được quý trọng, được giữ gìn” (Huấn Ca 49:15). Và đó cũng là hình ảnh của Thánh Giuse sau này trong Tân Ước.
Trong Tân Ước, 11 chương của Thư gửi người Do Thái đã viết về đức tin và với những đặc tính của Cựu Ước, những người đứng vững với nhân đức. Ở đó, Thánh Giuse cũng được nhắc đến. Nhưng một trong những trang Cựu Ước quan trọng nhất được dùng để miêu tả câu truyện chúng ta đọc về Giuse là lời chúc phúc mà Giacóp đã cho 12 người con, trước khi qua đời. Những lời của Cựu Ước cũng mô phỏng những gì mà Giuse Tân Ước xứng đáng lãnh nhận:
Giu-se là cây sai quả, cây sai quả bên suối; các cành nó vượt qua tường.
Những người bắn cung đã khiêu khích, đã bắn tên và tấn công nó.
Nhưng cây cung của nó vẫn vững vàng, và những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ, nhờ tay Đấng Vạn Năng của Gia-cóp, nhờ danh Vị Mục Tử, Tảng đá của Ít-ra-en.
Xin Thiên Chúa của cha con phù trợ con, Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con! Phúc lành của trời ở trên cao, phúc lành của vực thẳm ở phía dưới, phúc lành của nhũ hoa và tử cung!
Phúc lành của cha con trổi vượt, hơn cả phúc lành của núi non vạn đại, và ước nguyện của gò nổng thiên thu. Ước chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se, trên đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình. (Sáng Thế Ký 9:22-26) [5]
Sau cùng Thánh Kinh không nói gì về ngày, và giờ cũng như cái chết của Thánh Giuse, nhưng truyền thống tin rằng Thánh Giuse đã qua đời trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Thánh nhân an nghỉ trong vòng tay của Chúa Giêsu và Đức Maria. Ngài được cho là bổn mạng của những người hấp hối mong ơn chết lành. Vì thế, khi chúng ta cầu cho mình, cho ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, con nuôi, con đỡ đầu, hoặc cho những ai xin chứng ta cầu nguyện, cũng như chúng ta có bổn phận cầu nguyện cho họ, xin Thánh Giuse giúp được ơn chết lành.
Và hằng ngày hãy sốt sắng cầu xin ngài:
Kính chào Đấng Gìn giữ Chúa Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng nơi ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên cùng với ngài.
Lạy thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin chuyển cầu cho chúng con ơn sủng, lòng thương xót, và can đảm,
Và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen. [6]
Lễ Kính Thánh Giuse, 19 tháng 3 năm 2024TMD
______________
Tài liệu tham khảo:
1.https://www.google.com/search?client=firefox-b-1-d&q=how+old+when+Mary+gets+married+to+Joseph
2.St. Joseph. Wikipedia
3.https://www.godwhospeaks.uk/what-do-we-know-about-st-joseph/
5.Bản dịch Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, 1998.
6.Tông Thư Patris Code, Năm Thánh Giuse từ 1 tháng 1, 2000 đến 8 tháng 12, 2021 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Năm Thánh kỷ niệm 150 năm Giáo Hội Hoàn Vũ đã nhận Thánh Giuse là Bổn Mạng.
Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa trên sông Gordan, Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc, ở đó 40 ngày ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Để tìm hiểu những cám dỗ ấy của Ngài, cũng như chúng có ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này. Sau đây là bài viết của cha Thomas G. Weinandy, OFM, Cap., một nhà thần học, một nhà trước tác và cựu thành viên trong Ủy Ban Thần Học Thế Giới của Vatican,
Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao, ở đó Chúa biến hình trước mặt các ông (x. Marcô 9:2-10).
Thánh sử Marcô đã tả lại quang cảnh này bằng những từ ngữ rất gợi hình, truyền cảm: “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (3) Có Maisen và Êlia cùng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này khiến các ông vui sướng, và phản ứng lúc đó của Phêrô là muốn ở lại luôn trên núi với Thầy:
Anh chị em thân mến!
Khi Thiên Chúa của chúng ta mặc khải Ngài chính Ngài, thông điệp của Ngài luôn luôn nói đến tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi, người đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Ex 20:2). Đây là những lời đầu tiên trong Mười Giới Luật mà Ngài đã ban cho Maisen trên núi Sinai.
Vợ chồng xưng hô với nhau bằng Chồng ơi – Vợ ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào. Những từ ngữ trên là cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành cho nhau.
Thống kê cho thấy, ngày nay rất nhiều phụ nữ chọn sống độc thân, không lấy chồng và sinh con. Lý do vì họ muốn được tự do theo đuổi những giấc mộng riêng tư, vì không muốn chịu ràng buộc với trách nhiệm làm vợ và làm mẹ. Nhưng tự thâm tâm và bản năng, người phụ nữ luôn muốn có một người chồng và được làm mẹ.
Qua hai câu Thánh Kinh ngắn gọn, Thánh Ký Marcô đã vẽ ra hai khuôn mặt trái ngược nhau về Chúa Giêsu: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (3:20-21)
Ba nhà chiêm tinh hoặc đạo sỹ (magi). Các ngài là Caspar hay Caspas, Jaspas, Gathaspa. Melchior hay Melichior. Và Balthasar hay Balthazar, Balthassar hoặc Bithisarea. Các ngài đã lận lội đường xa đến thờ lạy Đức Kitô vừa giáng sinh. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2).
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.”
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại,
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?